CHIẾN THẮNG ĐÔNG BỘ ĐẦU VÀ SỰ NGHIỆP BẢO VỆ KINH THÀNH BẢO VỆ ĐẤT NƯỚC CỦA VƯƠNG TRIỀU TRẦN | | Cổng thông tin dòng họ Trần Nguyên Hãn
Xây dựng dòng họ   /  Trao đổi thông tin lịch sử
CHIẾN THẮNG ĐÔNG BỘ ĐẦU VÀ SỰ NGHIỆP BẢO VỆ KINH THÀNH BẢO VỆ ĐẤT NƯỚC CỦA VƯƠNG TRIỀU TRẦN
CHIẾN THẮNG ĐÔNG BỘ ĐẦU VÀ SỰ NGHIỆP BẢO VỆ KINH THÀNH BẢO VỆ ĐẤT NƯỚC CỦA VƯƠNG TRIỀU TRẦN
Trần Thái Tông thực là một vua sáng. Trong chiến đấu ác liệt vẫn tỉnh táo phân biệt đúng sai, nghe theo ý kiến của tướng Lê Tần, lại sáng suốt thay đổi chủ trương tác chiến, rút khỏi kinh thành, bảo toàn lực lượng, thực hiện vườn không nhà trống, toàn dân đánh giặc, tạo thế phản công giành thắng lợi. Chiến tranh cổ điển từ xưa, nơi nào mất thành là mất đất, mất kinh đô là mất nước. Trần Thái Tông là người đầu tiên trên thế giới chủ trương rút khỏi kinh thành rồi sau phản công chiếm lại.

                                    CHIÕN TH¾NG §¤NG Bé §ÇU

VÀ SỰ NGHIỆP BẢO VỆ KINH THÀNH

BẢO VỆ ĐẤT NƯỚC CỦA VƯƠNG TRIỀU TRẦN

                                                                            Cố GS. Phan Huy Lê

                                                    Nguyên Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam


Vào đầu thế kỷ XIII, đế chế Mông C hình thành và đang trên đường phát triển dữ dội, đe dọa vận mạng của nhiều quốc gia - dân tộc của hai đại lục Á-Âu. Cuộc xâm lăng Đại Việt lần thứ nhất nằm trong kế hoạch chinh phạt lớn của đế chế Mông C nhằm đánh bại Nam Tống, chiếm lĩnh toàn bộ miền Nam Trung Quốc. Đạo quân của Ngột Lương Hợp Thai có nhiệm vụ vừa xâm chiếm Đại Việt, vừa dùng Đại Việt làm bàn đạp mở mũi tiến công phối họp bất ngờ đánh vào phía nam nhà Nam Tống. Đạo quân xâm lược Đại Việt của Ngột Lương Hợp Thai có khoảng hơn nửa vạn kỵ binh Mông Cổ và hai vạn quân người Đại Lý. Sau khi đánh chiếm Vân Nam, vua Đại Lý là Đoàn Hưng Trí đầu hàng, đem binh lực phục vụ các hoạt động quân sự của tướng Mông Cổ, đánh dẹp các thủ lĩnh không hàng phục. Chính Đoàn Hưng Trí đã giao việc nước cho em là Tín Thư Nhật, cùng với chú là Tín Thư Phúc đem hai vạn quân người Thoán Bặc làm quân tiên phong tham gia cuộc xâm lăng Đại Việt do tướng Ngột Lương Hợp Thai chỉ huy. Trong cuộc xâm lăng Đại Việt, quân số của tưóng Ngột Lương Hp Thai có khoảng trên 2 vạn rưởi, gồm hàng ngàn kỵ binh thiện chiến của Mông Cổ và vài vạn binh lính Đại Lý thông thuộc địa hình núi rừng giáp vùng biên cương phía Tây Bẳc Đại Việt.

Trước hết, tướng Ngột Lương Hp Thai nhân danh Đại hãn Mông Cổ, sai sứ sang chiêu dụ vua Trần. Tháng 8 năm Đinh Tỵ (1257), trại chủ Quy Hóa (vùng hữu ngạn sông Hồng từ Lào Cai đến Phú Thọ) là Hà Khuất sai chạy ngựa trạm về kinh thành báo tin có sứ Mông Cổ sang. Chắc hẳn nhà Trần đã theo dõi những diễn biến ở phía Bắc, nhất là vùng Vân Nam giáp biên giới Đại Việt. Vì vậy, khi được tin sứ giả Mông Cổ sang như báo hiệu của cuộc xâm lăng, vua Trần Thái Tông lập tức hạ chiếu, sai tả hữu tướng quân điều quân thủy bộ lên phòng giữ biên giói, dưới sự chỉ huy của tướng Trần Quôc Tuấn. Cuối năm, nhà Trần ra lệnh cho "cả nước sắm sửa vũ khí", tức chuấn bị cho cả nước tham gia đánh giặc. Các sứ giả Mông Cổ bị tống giam vào ngục. Tất cả biểu thị ý chí quyết tâm đánh giặc, không chút nao núng.

Quân Mông Cổ đã tập kết trên vùng biên giới Vân Nam giáp Đại Việt và đã "ba lần sai sứ giả dụ hàng". Nhưng thấy sứ giả không trở về, tướng Ngột Lương Hp Thai quyết định tiến quân, sai Triệt Triệt Đô đem hơn nghìn quân tiến trước theo sông Thao (sông Hồng từ Bạch Hạc trở lên), lại cử con trai là A Truật đem quân tiếp viện và dò la tình hình đối phương. Thấy quân nhà Trần "rầm rộ bày đặt binh vệ", A Truật trở về báo cáo tình hình. Tướng Ngột Lương Hp Thai lin thống lĩnh đại quân theo hai đường tiến công Đại Việt, Triệt Triệt Đô làm tiên phong, A Truật đi đoạn hậu. Hai đường tiến quân của quân Mông Cổ là con đường hữu ngạn sông Hồng qua Quy Hóa và con đường theo sông Chảy qua châu Thu Vật (Yên Bình, Lục Yên, tỉnh Yên Bái). Tháng 12 năm Đinh Tỵ (1257), hai đạo quân Mông C gặp nhau ở vùng Việt Trì (Phú Thọ). Ngày 12 tháng 12 (17-1-1258), một trận đánh lớn đã xảy ra tại Bình Lệ Nguyên.

Vị trí Bình Lệ Nguyên được xác định tương đối thống nhất là một địa điểm nằm trên quốc lộ 2 gần sông Cà Lồ, khoảng giữa thị xã Vĩnh Yên và thị trấn Hương Canh, thuộc huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc ngày nay. Đây là một vùng đất tương đối bằng phẳng, gần sông Cà Lồ vốn là dòng sông lớn, phía Tây Nam nối liền sông Hồng, thông với Thăng Long, phía Tây Bắc nối với sông Cầu. Vua Trần Thái Tông trực tiếp thân chinh, chỉ huy quân thủy bộ bố trí trận địa chặn địch. Ngột Lương Hợp Thai chia quân làm ba đội: Triệt Triệt Đô chỉ huy quân tiên phong qua sông trước, Ngột Lương Hợp Thai cầm đại quân tiến theo sau, Phò mã Hoài Đô và tướng A Truật chỉ huy hậu quân. Kế hoạch tấn công của Ngột Lương Hp Thai là cho quân tiên phong của Triệt Triệt Đô tiến trước nhưng không đánh vội, cố dử quân của đối phương đến để cho đội quân của Phò mã Hoài Đô "theo sau cắt hậu quân của quân nhà Trần", lúc đó Triệt Triệt Đô "rình cưóp lấy thuyền, quân Man tan vỡ chạy ra sông không có thuyền tất bị ta bắt". Ý đồ của Ngột Lương Hợp Thai là dùng quân tiên phong dử quân ta, tạo cơ hội cho hậu quân cắt hậu quân của ta, rồi cưóp thuyền tức tước đoạt phương tiện rút quân của ta và bao vây diệt đại quân nhà Trần. Quân thủy của nhà Trần chắc chắn theo sông Hồng rồi sông Cà Lồ tiến lên bố trí trận địa Bình Lệ Nguyên và khi bất lợi cũng theo những đường sông này rút về Thăng Long. Chúng muốn chặn đường rút lui bng đường sông, bao vây và tiêu diệt quân chủ lực của nhà Trần tại Bình Lệ Nguyên.

Vừa qua sông, Triệt Triệt Đô vội tấn công ngay, không thực hiện đúng kế hoạch dử đối phương của chủ soái. Trận chiến đấu ác liệt đã xảy ra. Vua Trần cưỡi voi đốc chiến, tự dẫn đầu quân sĩ xông pha nơi mũi tên hòn đạn, dùng tượng binh nghênh chiến. A Truật là một tướng trẻ, mới 18 tuổi, dùng lính thiện xạ bắn vào voi của ta làm cho đội tượng binh bị rối loạn, bầy voi kinh sợ, quay lại giày xéo lên quân ta. Quân ta vẫn chiến đấu dũng cảm, nhưng trận thế càng ngày càng bất lợi và khó lòng đương đầu với thế mạnh ban đầu của quân Mông Cổ. Có người khuyên vua Trần ở lại cự chiến. Nhưng tướng Lê Tần đã sớm nhận ra tình thế bất lợi và nguy cơ bị tiêu vong nếu liều lĩnh quyết chiến với địch. Ông hết sức can vua: "Nếu bây giờ bệ hạ làm như thế thì chỉ như người dốc hết túi tiền đ đánh một canh bạc mà thôi. Thần tưởng hãy nên lánh đi, không nên khinh thưòng mà nghe người khác". Vua Trần nhận ra ý kiến hết sức tỉnh táo, mưu trí của tướng Lê Tần và kịp thời rút quân. Vua dùng kỵ binh rút đến Phạm Gia Bảo thì gặp Phạm Cụ Chích đem quân đến cứu viện. Trong chiến đấu, Phạm Cụ Chích hi sinh, nhưng vua Trần đã an toàn rút về bến Lãnh Mỹ thì xuống thuyn. Kỵ binh Mông Cổ vẫn đuổi theo, từ trên bờ bắn xuống. Lê Tần dùng ván thuyền đỡ tên, bảo vệ nhà vua an toàn. Do sai lầm của Triệt Triệt Đô, quân Mông Cổ không cướp được thuyền quân ta. Từ Bình Lệ Nguyên, quân ta theo sông Cà Lồ rút lui.

Như thế là kế hoạch của Ngột Lương Hợp Thai định cướp thuyền và bao vây tiêu diệt quân ta tại Bình Lệ Nguyên đã thất bại. Tục tư trị thông giám nhận xét: "Người An Nam tuy đại bại, nhưng lấy được thuyền trốn đi" và chủ soái Ngột Lương Hp Thai rất tức giận, nói rằng: "Tiên phong làm trái kế hoạch của ta, nước có hình phạt". Chỉ huy quân tiên phong là Triệt Triệt Đô hoảng sợ, uống thuốc độc tự tử.

Hôm sau là ngày 13 tháng 12 năm Đinh Tỵ (tức ngày 18-1-1258), vua Trn cho phá cầu Phù Lộ và bày binh, bố trận bên này sông đ chặn địch. Cầu Phù Lộ nm trên sông Cà Lồ và cũng trên con đường bộ từ Bình Lệ Nguyên tiến về Thăng Long. Quân Mông Cổ đuổi theo và vì cầu bị phá nên tìm cách vượt sông. An Nam chí lược chép: "Muốn lội qua sông nhưng không biết nông cạn, mới đi dọc theo b sông mà bắn tên lên trời, tên rơi cắm xuống nước mà không nổi lên, biết là chỗ y cạn, bèn sai kỵ binh qua sông". Theo cách thăm dò nông sâu đó, chúng nhanh chóng phát hiện ra những đoạn sông không thấy tên nổi lên là đoạn sông nông và cho kỵ binh vượt qua. Một trận ác chiến thứ hai đã xảy ra. Phú Lương hầu là một tướng tôn thất nhà Trần đã hi sinh. Trận cầu Phù Lộ là trận đánh cản địch, vừa ngăn chặn bước tiến của địch, vừa tạo điều kiện thời gian để triều đình và quân dân ta chuẩn bị rút khỏi kinh thành.

Sau trận đánh Phù Lộ, quân ta tiếp tục rút về phía Thăng Long. Quân Mông Cổ đuối theo nhằm truy kích quân ta và chiếm kinh thành. Sau trận Bình Lệ Nguyên, vua Trần theo sông Cà Lồ, sông Hồng rút thẳng về Thăng Long, để lại một bộ phận chặn địch ở Phù Lộ.

Qua trận đánh Bình Lệ Nguyên và trận Phù Lộ, triều đình nhà Trần đã nhận thấy trước thế mạnh của quân Mông Cổ, cần phải rút khỏi kinh thành để bảo toàn lực lượng và bảo vệ bộ máy đầu não của quốc gia. Quân ta theo sông Hồng lui về giữ sông Thiên Mạc, tức đoạn sông Hồng chảy qua bãi Mạn Trù, nay thuộc huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Quân Mông Cổ vượt sông Hồng tiến vào kinh thành Thăng Long.

Quân địch chiếm được kinh thành, nhưng chỉ còn là một tòa thành trống vắng. Quân đội và triều đình đã rút về giữ vùng Thiên Mạc. Hoàng gia cùng với các cung phi, công chúa và vợ con tướng soái được đưa về vùng Hoàng Giang (vùng Lý Nhân, tỉnh Hà Nam). Nhân dân 61 phường cũng đã tìm cách rời khỏi kinh thành. Lục soát khắp các cung điện, quân địch chỉ tìm thấy các sứ giả được cử sang trước đây, bị trói giam trong ngục thất và khi cởi trói thì một sứ giả đã chết. Chúng tức giận, ra sức tàn sát kinh thành.

Sức mạnh của quân Mông Cổ cùng những trận đánh thất bại, việc phải rút khỏi kinh thành làm cho một số người, kể cả một số tướng soái nhà Trần, có phần nao núng. Thái úy Trần Nhật Hiệu chỉ huy quân Tinh Cương là một trong những đạo quân chủ lực của nhà Trần. Thế mà khi vua Trần đi thuyền đến hỏi kế sách chống giặc thì Nhật Hiệu ngồi dựa vào mạn thuyền, lấy tay chấm nước viết vào mạn thuyền hai chữ "Nhập Tống" có ý khuyên vua trốn chạy vào đất Tống tức nhà Nam Tống ở Trung Quốc. Khi hỏi quân Tinh Cương đâu thì Nhật Hiệu trả lời vua "Không gọi được chúng đến" tức để cho quân ngũ rã rời. Nhưng triều đình và tuyệt đại đa số triều thần, tướng lĩnh cùng quân dân cả nước vẫn giữ vững tinh thần và ý chí chiến đấu. Sau khi gặp Thái úy Trần Nhật Hiệu, vua Trần lập tức dời thuyền đến hỏi ý kiến Thái sư Trần Thủ Độ thì nhận được câu trả lời tràn đầy khí phách và niềm tin: "Đầu thần chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo". Tướng Lê Tần vẫn luôn luôn ở bên cạnh nhà vua đ bàn việc cơ mật.

Quân Mông Cổ đã chiếm được kinh thành, nhưng không thể kết thúc thành công cuộc chinh phạt. Chiến lược sở trường của quân Mông Cổ là phát huy sức mạnh cơ động của kỵ binh, đánh nhanh thắng nhanh, đi đến đâu thì cướp bóc lương thực ở đó để nuôi quân, áp dụng chiến lược hậu cần tại chỗ. Nhưng lần này, chiến lược quân sự và hậu cần đó đều không thể thực hiện được. Chỉ sau mấy ngày, hàng vạn quân đóng giữa một kinh thành trống vắng, nạn thiếu lương thực đã trở thành mối đe dọa hết sức nguy hiểm cho quân Mông Cổ. Chúng cho quân tràn ra cướp phá các vùng quanh kinh thành nhưng luôn luôn gặp sức chống cự quyết liệt của cư dân các làng xã. Một lần, một đội kỵ binh Mông Cổ tiến ra làng Cổ Sở (nay là Yên Sở, Đắc Sở, huyện Hoài Đức, Hà Nội) để cướp lương thực, bị "Người trong thôn dẫn dân chúng ra chống đánh, chém được đầu giặc, giặc tan chạy".

Giữa lúc quân địch càng ngày càng gặp nhiều khó khăn thì nhà Trần ra sức tăng cường lực lượng, khẩn trương chuẩn bị phản công đuổi giặc ra khỏi kinh thành.

Ngày 24 tháng 12 năm Nguyên Phong 7, tức ngày 29-01-1258, nhà Trần tổ chức phản công. Vua Trần Thái Tông cùng Thái tử Hoảng thân chinh, ngự lâu thuyền chỉ huy đại quân từ Thiên Mạc theo sông Hồng tiến lên, mở cuộc tấn công mãnh liệt vào Đông Bộ Đầu. Đây là quân cảng của Thăng Long thời Trần, ở vào vị trí dốc phố Hàng Than, Hòe Nhai ra bờ sông Hồng, phía trên cầu Long Biên hiện nay. Quân Mông Cổ đại bại, phải bỏ kinh thành Thăng Long tháo chạy về Vân Nam theo đường hữu ngạn sông Hồng. Khi qua trại Quy Hóa lại bị chủ trại Hà Bổng bất ngờ dùng lực lượng vũ trang của dân tộc miền núi, tập kích gây cho quân địch tổn thất nặng nề. Từ đó, quân địch chỉ lo chạy thoát thân về Vân Nam, không dám cưóp bóc, đốt phá như khi hung hăng tiến quân sang xâm lược. Nhân dân mỉa mai, hài hước gọi bọn chúng là "Giặc Phật".

Sau 10 ngày chiếm đóng từ ngày 18 đến ngày 29-01-1258, hơn hai vạn quân Mông Cổ đã bị đánh bật ra khỏi kinh thành. Với chiến thắng Đông Bộ Đầu, kinh thành Thăng Long và đất nước được giải phóng.

Ngày mồng Một Tết Mậu Ngọ (ngày 5-2-1258), buổi thiết triều đầu năm cũng là buổi mừng chiến thắng. Vua Trần ngự chính điện, tức điện Thiên An ở vị trí trung tâm của Cấm Thành, định công phong thưởng cho các tướng soái có công. Sử sách chỉ ghi tên một vài nhân vật tiêu biểu. Tướng Lê Tần tức Lê Phụ Trần có công lớn trong trận Bình Lệ Nguyên được phong làm Ngự sử đại phu, tước Bảo Văn hầu, Hà Bổng được phong tước hầu, Trần Khánh Dư được phong thưởng. Riêng Lê Tần còn được nhà vua đem công chúa Chiêu Thánh gả cho và nói rằng: "Trẫm không có khanh thì đâu có ngày nay".

Trong cuộc kháng chiến chống xâm lược Mông Nguyên lần thứ nhất, trận Đông Bộ Đầu giữ vai trò trận quyết chiến chiến lược. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Thăng Long - Hà Nội, một trận quyết chiến có ý nghĩa quyết định thắng lợi của cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc đã diễn ra trên đất kinh kỳ. Chiến công Đông Bộ Đầu và thắng lợi hào hùng của cuộc kháng chiến đã có tác dụng vô cùng to lớn đối với toàn bộ sự nghiệp bảo vệ đất nước thời Trần và để lại nhiều giá trị trong di sản văn hóa dân tộc.

Thắng lợi của cuộc kháng chiến không những đã đánh bại một cuộc xâm lăng của đế chế Mông Cổ, giữ vững độc lập chủ quyền quốc gia mà còn bẻ gãy một gọng kìm dùng Đại Việt làm bàn đạp đánh lên Nam Trung Quốc, gây khó khăn cho cuộc tấn công nhà Nam Tống. Do thất bại ở Đại Việt, Ngột Lương Hợp Thai phải từ Vân Nam theo đường qua Ung Châu (Quảng Tây) lên hội quân ở Ngạc Châu, chịu rất nhiều tổn hại và chỉ còn không quá 5.000 quân.

Cuộc kháng chiến năm 1258 là cuộc đụng độ đầu tiên của quân dân ta với lực lượng kỵ binh thiện chiến và chiến lược chinh phục của đế chế Mông Cố. Qua những tổn thất của cuộc chiến đấu ở Bình Lệ Nguyên, rồi việc rút khỏi kinh thành và tổ chức phản công, nhà Trần đã rút được nhiều bài học kinh nghiệm sâu sắc. Từ đó, tư tưởng và nghệ thuật quân sự của nhà Trần được xác lập và hoàn thiện trong các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông Nguyên lần thứ hai, thứ ba. Đó là những tư tưởng lớn mà sau này, Quốc công Tiết chế Trần Quốc Tuấn đã tổng kết là "Dĩ đoản chế trường", "Vua tôi đồng lòng, anh em hòa thuận, nước nhà chung sức", "Khoan thư sức dân làm kế sâu rễ bền gốc", "Chúng chí thành thành" (ý chí của dân chúng là bức thành giữ nước), về thực chất đó là chủ trương dựa vào dân, đoàn kết toàn dân để đánh giặc, biết tránh quyết chiến trước thế mạnh ban đầu của giặc, tổ chức rút lui để bảo toàn lực lượng, đồng thời phát động toàn dân đánh giặc bằng các đội "Dân binh" của làng xã, bằng kế "Thanh dã"... tiêu hao sinh lực địch, rồi tạo thời cơ phản công giành thắng lợi quyết định.

Thắng lợi của cuộc kháng chiến năm 1258 còn cổ vũ mạnh mẽ tinh thần chiến đấu, tạo nên niềm tin của quân dân thời Trần vào quyết tâm đánh bại các cuộc xâm lăng tiếp theo của đế chế Mông Nguyên. Bài thơ của vua Trần Thái Tông còn như ghi lại âm vang sâu thẳm của chiến công năm Nguyên Phong trong tâm trí các thế hệ quân dân thời Trần:

Bạch đầu quân sĩ tại,

Vãng vãng thuyết Nguyên Phong.

(Người lính già đầu bạc,

Kể mãi chuyện Nguyên Phong)

Trên cơ sở phát huy kinh nghiệm và tinh thần của chiến thắng Đông Bộ Đầu, nhà Trần đã tổ chức và lãnh đạo quân dân Đại Việt vượt qua mọi thử thách, gian nguy, liên tiếp lập nên chiến thắng của cuộc kháng chiến chống Mông Nguyên lần thứ hai năm 1285, lần thứ ba năm 1287-1288, kết thúc bằng đại thắng Bạch Đằng Giang lịch sử ngày 9-4-1288. Đế chế Mông Nguyên đang tung hoành trên đại lục Á- Âu, đánh bại biết bao nhiêu quốc gia, trong đó có những đế chế lớn đương thời, nhưng ba lần xâm phạm nước Đại Việt phương Nam này với những cố gắng chiến tranh ngày càng cao, cả ba lần đều bị đại bại với những thất bại ngày càng nặng nề. Đó là những trang sử vô cùng hào hùng trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc, những cống hiến lớn lao của vương triều Trần trong sự nghiệp bảo vệ kinh thành, bảo vệ đất nước, bảo vệ độc lập dân tộc../

LỜI BÌNH: Trần Thái Tông thực là một vua sáng. Trong chiến đấu ác liệt vẫn tỉnh táo phân biệt đúng sai, nghe theo ý kiến của tướng Lê Tần, lại sáng suốt thay đổi chủ trương tác chiến, rút khỏi kinh thành, bảo toàn lực lượng, thực hiện vườn không nhà trống, toàn dân đánh giặc, tạo thế phản công giành thắng lợi. Chiến tranh cổ điển từ xưa, nơi nào mất thành là mất đất, mất kinh đô là mất nước. Trần Thái Tông là người đầu tiên trên thế giới chủ trương rút khỏi kinh thành rồi sau phản công chiếm lại. 500 năm sau, tháng 8 năm 1782 Napoléon phát động tấn công nước Nga, uy hiếp thủ đô Matxkova của Nga. Trước sức mạnh của quân đội Pháp, tướng Cutudốp cũng thực hiện rút hết lực lượng quân đội và nhân dân ra khỏi kinh thành Matxkova, thực hiện vườn không nhà trống, đốt hết nhà cửa, dấu hết lương thực. Tháng 9 quân Pháp chiếm được Matxkova nhưng rồi bị chết đói, chết rét, phải mổ cả ngựa để ăn. Tháng 10, quân Pháp phải rút khỏi nước Nga. Quân Nga truy kích, có bộ phận vào tận kinh đô Pari của nước Pháp./.


 


Liên kết website
Tìm kiếm
Hỗ trợ trực tuyến
Mr. Trung : 0913 985 589
Thông báo dòng họ
Video
   LỄ THÀNH LẬP HỘI ĐỒNG LÂM THỜI HỌ TRẦN VIỆT NAM
Thống kê truy cập
Online: 153
Tổng truy cập: 1276510
Nội san dòng họ
  • QUÝ HƯƠNG TỨC MẶC HỌ TRẦN VÀ NGUYÊN TỔ HOÀNG ĐẾ TRIỀU TRẦN RỪNG THẦN Nội san dòng họ Nội san dòng họ